Dù sức yếu vì tuổi cao, thánh nhân vẫn một lòng nhiệt thành truyền giáo và chỉ một thời gian ngắn hàng ngàn người đã xin trở lại đạo và được chính Ngài rửa tội. Ngài đã ý thức sâu xa lời Chúa: ” Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24-25).
Sau khi Cha sáng lập tu hội từ trần, Cha Phanxicô được bầu làm bề trên thay thế trái với ý muốn của ngài. Tuy là bề trên, nhưng ngài vẫn quét dọn phòng, giặt giũ như bao người khác. Nhiều lần ngài từ chối làm giám mục vì lời khấn thứ tư của dòng là: không bao giờ theo đuổi chức vụ hoặc danh giá bên trong hay bên ngoài nhà dòng. Ngoài công việc truyền giáo và chăm sóc bệnh nhân cũng như tù nhân, tu hội còn cung cấp nơi ẩn dật cho những ai muốn sống đơn độc. Một trong những nhiệm vụ của tu sĩ dòng là thay phiên nhau chầu Thánh Thể.
“Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Lời nói này của Chúa Giêsu đã ứng nghiệm nơi thánh Carloro và các bạn tử đạo, được nung nấu bởi tình yêu Chúa và khát vọng mang Tin Mừng đến cho mọi người
Thánh Maxêlinô và Thánh Phêrô rất can đảm trong việc sống niềm tin Kitô giáo. Các ngài phục vụ cộng đoàn tín hữu với một lòng hy sinh quên mình đặc biệt. Trong suốt cuộc khủng bố bắt đạo của Điôclêsiô, nhiều Kitô hữu đã bị giết. Hai vị Thánh này cũng ở trong số họ.
Thánh Giustino xác quyết: “Tôi sẽ nói sự thật, không đắn đo sợ sệt, cả vào lúc bị phân thây thành trăm mãnh”. Nhờ gương các thánh tử đạo đi trước đã đánh động ngài rất nhiều, làm tăng thêm sự can đảm và lòng nhiệt thành bảo vệ Đức tin.
Ðây là một ngày lễ được thiết lập trễ, trong khoảng thế kỷ 13 hay 14. Ngày lễ này được thiết lập trong toàn Giáo Hội để cầu nguyện cho sự hiệp nhất. Chỉ mới đây, ngày cử hành lễ được ấn định theo sau Lễ Truyền Tin vào tháng Ba và trước lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả vào tháng Sáu.
Trong bộ áo giáp trắng rực rỡ, vị nữ anh thư trẻ tuổi cưỡi ngựa kèm theo một lá cờ tung bay phía trên. Lá cờ ấy có ghi tên GIÊSU và MARIA. Trong trận đại chiến thành Ôlanh, Giăngđắc bị một mũi tên bắn trúng nhưng thánh nữ vẫn tiếp tục thúc giục binh lính chiến đấu. Cuối cùng, họ đã thắng trận!
Cũng như Thánh Rôsa, Maria Anna thường tự cho mình là “Maria Anna của Chúa Giêsu”, ngài chăm sóc người nghèo và dạy dỗ các trẻ em người thổ dân ngay tại nhà của mình. Về lối sống khắc khổ, ngài ăn rất ít và ngủ có ba giờ mỗi đêm. Ngài được ơn tiên tri, biết được tâm hồn người khác, chữa lành người bệnh tật qua dấu Thánh Giá hoặc rảy nước phép, và đã có lần làm cho người chết sống lại.
Nhưng lúc ấy vua Henri muốn lấy Annê Bôlây làm vợ dù ông đã có vợ rồi. Magarita không chấp nhận lối hành xử đó và vì vậy vua đã bắt Magarita Pôlê phải rời khỏi hoàng cung. Ông căm giận và đe dọa sẽ khử diệt cả gia đình bà.
Sau những thất bại, Augustinô đã khôn ngoan hơn để ý đến các nguyên tắc truyền giáo: Hãy thanh tẩy thay vì tàn phá các đền thờ và các phong tục ngoại giáo; hãy du nhập các nghi thức và ngày lễ của người ngoại giáo vào ngày lễ Kitô Giáo; duy trì các truyền thống địa phương càng nhiều càng tốt.
Nhưng trên tất cả, điều mà Philipphê Nêri muốn làm là đem Chúa Giêsu đến cho tha nhân. Để tránh sự ngưỡng mộ của họ, đôi lúc cha Philipphê Nêri đã hành động cách ngớ ngẩn. Thánh nhân muốn được mọi người làm lơ và quên đi việc họ nghĩ ngài thánh thiện.
Mađalêna ao ước phục vụ Thiên Chúa qua tính cách của một trợ sĩ dòng Camêlô. Nhưng đó không phải là ý Chúa. Một nhóm linh mục người Pháp thuộc tu hội Thánh Tâm muốn thành lập một tu hội nữ để giáo dục các cô gái, và cha Varin, bề trên tu hội nghe biết về đức hạnh của Mađalêna, nên vào năm 1800, cha đã giao cho Mađalêna cùng với ba người khác công việc thiết lập một tu hội giáo dục.
Thánh Đavít I cai trị vương quốc ngài với quyền tài phán đặc biệt. Thánh nhân rất có lòng từ tâm độ lượng với những người nghèo khổ. Hết mọi thần dân được tự do thăm viếng ngài bất cứ lúc nào họ muốn. Thánh nhân nêu gương sáng cho mọi người bằng tấm lòng yêu mến cầu nguyện.
Ngài được thụ phong linh mục năm 23 tuổi và tận tụy rao giảng cho những người nông dân, người chăn nuôi từ quê lên tỉnh buôn bán, và ngài tìm cách giúp đỡ những phụ nữ vô gia cư phải sống ngoài đường phố qua công việc ăn xin hay làm điếm.
Thánh Rita sống đời tận hiến hết sức mực thước, gương mẫu, Ngài nổi bật trong những nhân đức như bác ái, ăn chay, hãm mình, phạt tội. Với sự đạo đức, thánh thiện của Ngài, thánh Rita đã lôi kéo được rất nhiều người trở về với Hội Thánh Chúa Kitô. Thánh Rita đã được kết hiệp với sự thương khó của Chúa bằng những vết gai trên đầu, giống Chúa Kitô chịu đội mão gai.
Thánh Christophe Magallanes là một mục tử rất nhiệt thành, Ngài làm việc truyền giáo cho thổ dân Huicholes. Ngài được sai tới với thổ dân bản địa để thăng tiến phẩm giá và lòng tin Kitô nơi họ. Ngài cũng hiến đời mình cho công việc đào tạo và là chỗ nương tựa cho các linh mục vào một thời kỳ khó khăn cho Giáo Hội Mễ Tây Cơ. Thánh nhân và các bạn tử đạo gồm giáo dân và linh mục đã hy sinh tới giọt máu cuối cùng để làm chứng cho Chúa phục sinh.
Thánh Bênađinô Siêna đã rao giảng lòng tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu. Ngài sử dụng Thánh Danh này rất nhiều lần trong mỗi bài giảng. Thánh nhân xin người ta in Thánh Danh Chúa Giêsu và dán trên các cổng ra vào của thành phố, trên khắp các cánh cửa nhà… Nhờ việc tôn sùng Thánh Danh Chúa Giêsu và lòng sùng kính Mẹ Maria, Bênađinô Siêna đã đem hàng ngàn người trên khắp nước Ý trở về với Giáo hội.
Cùng với các công việc đầu bếp, y tá, làm vườn, thầy được Chúa ban cho ơn chữa lành bệnh tật và bất cứ ai đến với thầy đều cảm thấy phấn khởi và được bình an trong tâm hồn.
Năm 523, thánh nhân được bầu chọn làm giáo hoàng. Lúc ấy, Thêôđôric đang cầm quyền tại Ý và theo bè rối Ariô không tin Đức Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Khởi đầu triều đại, Thêôđôric để cho các tín hữu Công giáo được tự do. Tuy nhiên về sau, ông thay đổi ý định và trở nên nghi ngờ âm mưu lật đổ ông. Nhưng có một người mà ông tin chắc là không muốn điều đó là Đức Thánh Cha.
Lòng yêu mến nồng nàn đối với bí tích Thánh Thể của thánh nhân đã được phản ảnh qua các hiện tượng, phép lạ từ các thánh tích hay các bức hình của thánh nhân trong các thế kỷ qua.