Cuộc đời truyền giáo của Cha Junipero là một cuộc chiến chống với giá lạnh và đói khát, với các nhà lãnh đạo quân sự không có cảm tình và ngay cả bị nguy hiểm đến tính mạng vì những người da đỏ. Ðể duy trì tinh thần truyền giáo hăng say ấy, ngài cầu nguyện hàng đêm, có khi từ nửa đêm cho đến sáng.
Các chi tiết trong Phúc Âm cho thấy các thánh sử không xu nịnh Phêrô. Hiển nhiên ngài là một người không biết giao tế. Và đó là sự an ủi lớn lao cho chúng ta khi thấy Phêrô cũng có những yếu đuối của con người. Trong khi đó, tâm điểm đức tin của Phaolô thật đơn giản và tuyệt đối: chỉ Thiên Chúa mới có thể cứu chuộc nhân loại. Không một nỗ lực nào của con người có thể tạo nên công trạng để có thể dâng lên Thiên Chúa như của lễ đền tội và đền đáp các ơn sủng.
Các văn bản của Thánh Irenaeus giúp ngài có một địa vị cao trọng trong các giáo phụ của Giáo Hội, vì các tư tưởng ấy không những giúp hình thành nền tảng thần học Kitô Giáo mà còn gìn giữ đức tin Công Giáo khỏi những nguy hiểm của lạc thuyết.
Ngài là thần học gia sáng chói nhất của truyền thống Alexandria. Văn bút của ngài có đặc tính chính xác về tư tưởng, lập trường rõ ràng, và lý luận sắc bén. Ngài được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII tuyên xưng là tiến sĩ Giáo Hội vào năm 1882.
Cậu bé trả lời cách cương quyết và dứt khoát. “Tôi đã là một Kitô hữu. Hiện nay tôi đang là Kitô hữu và tôi sẽ tiếp tục là Kitô hữu!” Nhà lãnh đạo hết sức ngạc nhiên. Rồi ông thay đổi phương sách của mình. Ông ngăm đe nạt nộ thay vì hứa hẹn… . Nhưng kết cục chẳng ăn thua gì!
Những bài học Dấn Thân, Nhiệt Thành, và Can Trường loan báo Tin Mừng của 2 Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô là những tấm gương ngời sáng cho mỗi nguời chúng ta. Chúng ta học nơi các Ngài, để cùng lên đường rao giảng Nước Thiên Chúa.
Cả William và Mantua đều là những người bạn cao cả vĩ đại, thế nhưng có lối nhìn sự việc khác nhau. Mantua đi lên phía đông còn William trẩy xuống phía tây. Cả hai đều rất thành công. Thật vậy, cả hai đều là những vị thánh.
Thánh Gioan đã phủ nhận vai trò Mêsia mà đám đông dân chúng gán cho Ngài vì gương sáng, lòng đạo đức, sự thánh thiện và những công việc Ngài đang làm. Thánh nhân đã gồm tóm cuộc đời của Ngài trong câu nói:” Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại “.
Ngay khi còn là một thanh niên, cha Giuse Cafasso đã yêu quý Thánh Lễ và nổi tiếng về sự khiêm tốn cũng như hăng say cầu nguyện. Ngài hoạt động đặc biệt chống ảnh hưởng của lạc thuyết Jansen và sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của Giáo Hội. Ngài dùng phương cách của Thánh Francis de Sales và Thánh Anphong Liguori để điều hòa sự khắc khổ quá đáng mà thời ấy rất phổ thông trong các chủng viện.
Vua nước Anh là Henry VIII muốn li dị hoàng hậu là bà Catherine ở Aragon vì bà không sinh được con trai nối dõi. ĐGM Fisher đã làm nhà vua tức giận khi tuyên bố hôn nhân cũ của nhà vua vẫn còn giá trị, và từ chối không chấp nhận Henry là thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Anh Quốc.
Trong vô vàn những bức thư mà Ngài để lại, Thánh Louis đã cho thấy Ngài dành rất nhiều thời gian và sức lực cho việc chăm sóc đời sống tinh thần của giới trẻ, và Ngài đã dấn thân để bất cứ người nghèo nào cũng đều có thể nhận được một sự chôn cất xứng đáng sau khi họ qua đời.
Michelina sống cầu nguyện. Ngài dùng thời giờ rảnh rỗi để phục vụ những người nghèo đói túng cực. Ngài viếng thăm những người cô đơn sầu muộn và săn sóc những người đau bệnh hoặc cao niên không thể tự lo cho bản thân. Cuối cùng, Michelina trở thành một chị Dòng ba Phanxicô.
Thánh nhân ước ao được đi truyền giáo cho dân tộc Hung Gia Lợi, nhưng ý Chúa nhiệm mầu lại hướng Ngài đi một lối khác. Ngài tìm đến một nơi thanh vắng trong hoang địa hoàn toàn sống chiêm niệm, cầu nguyện, ăn chay và đánh tội.
Mối tương quan huyền nhiệm với Chúa Giêsu Thánh Thể dẫn đưa chúng ta đến Thiên Chúa thì cũng đồng thời nối kết chúng ta với nhau cách thâm tình và bền chặt. Chúng ta trở nên chi thể của Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô –nên thành viên của Giáo Hội là vậy!
Hồng y Grêgôriô Barbarigô đã sống một cuộc đời hy sinh và giản dị. Ngài chi một số tiền lớn cho những nhu cầu bác ái từ thiện. Ngài luôn mở rộng cửa nhà để sẵn sàng tiếp đón những người lâm cảnh túng thiếu. Ngài mở một trường đại học danh tiếng và một chủng viện để đào luyện các chủng sinh thành linh mục. Ngài ban tặng chủng viện một phòng thư viện hạng nhất gồm nhiều loại sách quý của các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai và các sách Kinh Thánh.